Công đoàn đề xuất Dự thảo Luật cần điều chỉnh theo hướng tăng số lần nghỉ việc để đi khám thai lên 7 lần
Công đoàn đề xuất Dự thảo Luật cần điều chỉnh theo hướng tăng số lần nghỉ việc để đi khám thai lên 7 lần
Hướng sửa đổi là sẽ nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội, mở rộng đối tượng trợ giúp xã hội phù hợp với tình hình thực tiễn, dự kiến áp dụng từ ngày 1/7/2024.
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong năm vừa qua, các chính sách trợ giúp xã hội đã được thực hiện bảo đảm đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng.
Ông Tô Đức, Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội), thông tin hiện cả nước có khoảng 3,3 triệu đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp hàng tháng, và khoảng 400.000 đối tượng thuộc nhóm chăm sóc người tâm thần nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng, người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa, không tự phục vụ.
Như vậy, tính chung có khoảng 3,7 triệu người đang hưởng trợ cấp hàng tháng, với mức chi khoảng 28.000 tỷ đồng/năm, bao gồm trợ cấp, hỗ trợ chăm sóc, bảo hiểm y tế.
Tuy nhiên, các chính sách mới hỗ trợ được một phần nhu cầu thiết yếu tối thiểu của những đối tượng như cơm ăn, áo mặc, điện nước sinh hoạt, đảm bảo cuộc sống.
Theo ông Đức, hiện nay mức chuẩn trợ cấp xã hội đang là 360.000 đồng/tháng, rất thấp và chỉ đạt 24% so với chuẩn nghèo khu vực nông thôn của giai đoạn 2021-2025 (1,5 triệu đồng/tháng), và 20% so với lương cơ sở từ 1/7/2023 (1,8 triệu đồng/tháng).
Vì thế, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu, tham mưu trình Chính phủ nâng mức trợ cấp lên đối với nhóm đối tượng bảo trợ xã hội.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ đã xây dựng phương án, lấy ý kiến các Bộ ngành, đề xuất Bộ Tài chính nghiên cứu, bố trí tăng nguồn lực dành cho đối tượng bảo trợ xã hội, phù hợp với điều kiện ngân sách trong bối cảnh cải cách chính sách tiền lương.
“Khi cải cách tiền lương, khoảng cách giữa chuẩn trợ giúp xã hội sẽ tiếp tục được gia tăng. Do đó, chúng tôi đã báo cáo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các cấp có thẩm quyền sẽ có lộ trình tăng mức trợ cấp cho đối tượng bảo trợ xã hội. Chúng ta cũng sẽ rà soát để xác định, hoàn thiện chính sách trợ cấp xã hội đối với một số nhóm đối tượng đã được quy định”, Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội cho hay.
Lãnh đạo Cục Bảo trợ xã hội cũng nhấn mạnh, việc nâng mức trợ cấp sẽ tuân theo một số nguyên tắc. Trước hết sẽ thiết kế chính sách phù hợp với khả năng bố trí ngân sách và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Sau đó, sẽ hướng đến mục tiêu bảo đảm mức sống tối thiểu cho nhóm đối tượng, như có cơm ăn, áo mặc, nhu cầu về điện, nước sinh hoạt. Cuối cùng là những nhu cầu sử dụng dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục…
Theo Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 20/2021/NĐ-CP về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề xuất mức chuẩn trợ giúp xã hội áp dụng từ ngày 1/7/2024 là 500.000 đồng/tháng.
Như vậy, so với hiện nay, mức chuẩn trợ giúp xã hội sẽ tăng thêm 140.000 đồng/tháng. Ngoài ra, tùy thuộc điều kiện kinh tế - xã hội tại địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định đối với trường hợp quy định như sau: Mức chuẩn trợ giúp xã hội, mức trợ giúp xã hội áp dụng trên địa bàn cao hơn mức chuẩn trợ giúp xã hội, mức trợ giúp xã hội quy định tại Nghị định này.
Đối tượng khó khăn khác chưa quy định tại Nghị định này được hưởng chính sách trợ giúp xã hội, trong đó có đối tượng người khuyết tật là thế hệ thứ ba của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; người là thành viên hộ nghèo, cận nghèo không có thành viên trong độ tuổi lao động, hoặc có thành viên trong độ tuổi lao động, nhưng mất khả năng lao động.
Theo Nghị định 20, hiện có 8 nhóm đối tượng bảo trợ xã hội đang được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng như: Trẻ em dưới 16 tuổi bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi, mồ côi cả cha và mẹ; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo; người cao tuổi thuộc thuộc diện hộ nghèo, người cao tuổi từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn.
Người từ đủ 80 tuổi trở lên không không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng; người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng...
Cùng với đề xuất tăng mức trợ cấp xã hội, hiện Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, và các địa phương đang đẩy mạnh việc thực hiện chi trả trợ cấp xã hội không dùng tiền mặt, đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Đồng thời, đáp ứng yêu cầu bao phủ điểm rút tiền mặt từ tài khoản đến tận cấp xã, phường, đảm bảo thuận tiện, an toàn, và phù hợp với đặc thù của đối tượng bảo trợ xã hội.
Trước mắt, khi dịp Tết cổ truyền của dân tộc đang đến gần, Bộ cũng sẽ theo dõi sát tình hình, chỉ đạo các địa phương rà soát, trợ giúp xã hội dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024 kịp thời cho các đối tượng thụ hưởng, đảm bảo mọi người dân đều có Tết.
Theo BHXH Việt Nam, điều kiện hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ sinh con hiện hành được quy định tại điều 31 Luật BHXH năm 2014. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các đối tượng sau đây:
- Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;
- Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi; Lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con.
Theo đó, người lao động phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con; hoặc đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng BHXH từ đủ 3 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
Mức hưởng trợ cấp thai sản một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 6 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.
Ngoài ra, từ ngày 01/7/2024, lao động nữ sinh con được nhận thêm tiền, bao gồm các khoản trợ cấp một lần khi sinh con và chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản.
Người lao động có thể đóng khoản nợ bảo hiểm thất nghiệp để hưởng chế độ
Phải đáp ứng 3 điều kiện sau bạn sẽ thỏa điều kiện thủ tục trợ cấp sinh con ở Nhật:
Công chức, viên chức hoặc nhân viên công ty tham gia Hiệp hội Bảo hiểm Y tế Quốc gia (健康保険組合) hoặc Hiệp hội Hỗ trợ Kinh tế Tương hỗ (共済組合) của cơ quan hoặc nơi làm việc của họ. Người tham gia bảo hiểm y tế tư nhân sẽ không được hưởng các quyền lợi nêu trên.
Vì điều kiện là phải tham gia bảo hiểm nên dù không phải là nhân viên chính thức vẫn được hưởng quyền lợi.
Sinh con, sẩy thai hoặc thai chết lưu sau khi mang thai từ 4 tháng trở lên sẽ được hưởng trợ cấp sinh sản. Sảy thai trước 85 ngày sẽ không nhận được trợ cấp.
Những người không nhận lương trước và sau khi sinh con hoặc nhận ít hơn mức trợ cấp thai sản sẽ được hưởng trợ cấp.
Đặc biệt, ngay cả những người đã nghỉ việc hoặc có ý định nghỉ việc vì sinh con vẫn được hưởng trợ cấp sinh sản nếu đáp ứng đủ 2 điều kiện sau. Thứ nhất, thời gian tham gia bảo hiểm phải trên 1 năm. Thứ hai, nghỉ việc trong thời gian hưởng chế độ (42 ngày trước ngày dự sinh + số ngày sinh con sau ngày dự sinh (nếu có) + 56 ngày sau khi sinh con).