Chữ Trung trong tiếng Hán là gì? Chữ Trung (中) có cấu tạo và cách viết như thế nào? Đây là điều mà rất nhiều bạn học băn khoăn và mong muốn tìm hiểu. Trong bài viết này, PREP sẽ giải mã chi tiết về chữ Trung trong tiếng Hán và bật mí thêm những điều thú vị về chữ 中 nhé!
Chữ Trung trong tiếng Hán là gì? Chữ Trung (中) có cấu tạo và cách viết như thế nào? Đây là điều mà rất nhiều bạn học băn khoăn và mong muốn tìm hiểu. Trong bài viết này, PREP sẽ giải mã chi tiết về chữ Trung trong tiếng Hán và bật mí thêm những điều thú vị về chữ 中 nhé!
Sau khi thống nhất Hoa Hạ, Hoàng Đế bèn lệnh cho sử quan của ông là Thương Hiệt nghĩ biện pháp sáng tạo chữ.
Một hôm Thương Hiệt đang suy nghĩ thì thấy từ trên trời có một con phượng hoàng bay đến. Một vật nó ngậm ở miệng rơi xuống, vừa vặn rơi ngay trước mặt Thương Hiệt. Thương Hiệt nhặt lên thấy trên mặt có dấu chân, nhưng ông không thể nào nhận ra đó là dấu chân loài thú nào.
Đúng lúc ấy có một người thợ săn chạy đến và nói: “Đây là dấu chân con tỳ hưu, khác hoàn toàn với dấu chân các loài thú khác. Dấu chân của các loài thú khác tôi nhìn một cái là biết ngay.”
Thương Hiệt liền nghĩ, vạn sự vạn vật đều có đặc trưng riêng của nó, nếu nắm bắt được đặc trưng của sự vật, vẽ ra hình vẽ thì ngay cả người thợ săn cũng có thể nhận ra được, đây chẳng phải là chữ đó sao?
Từ đó Thương Hiệt chú ý quan sát các loại sự vật và vẽ ra hình dáng theo đặc trưng, từ đó đã tạo ra rất nhiều chữ tượng hình. Sau này lại có chữ hội ý (hội tụ các ý của các bộ cấu thành).
Về nguồn gốc ra đời của chữ Hán Tiếng Trung có rất nhiều sự tích truyền thuyết, bên cạnh đó cũng có những minh chứng từ khảo cổ học tìm thấy.
Theo như các nhà khảo cổ thì chữ Hán Tiếng Trung có quá trình phát triển từ Chữ Giáp Cốt -> Chữ Kim Văn -> Triện Thư -> Lệ Thư -> Khải Thư
Chữ Hán cổ nhất được cho là chữ Giáp Cốt xuất hiện vào thời nhà Ân khoảng 1600 - 1020 trước Công Nguyên. Chữ Giáp Cốt là chữ được khắc trên các mảnh xương thú và mai rùa. Các nhà khảo cổ đã phát hiện hơn 15 vạn mảnh xương thú có khoảng 4500 chữ.
Chữ Giáp Cốt rất giống với hình vẽ, nét bút thẳng có thể nhìn vào đó để đoán được ý nghĩa. Nó sử dụng các phương pháp Tượng Hình, chỉ sự, hội ý để cấu tạo chữ và tạo thành những kết cấu từ và những câu đơn giản.
Đây là loại chữ chữ được khắc trên đồ kim khí, cụ thể hơn là trên các chuông (chung) và vạc (đỉnh). Chữ Kim văn là bước kế thừa của chữ giáp cốt. Nó được ra đời vào cuối đời nhà Thương, thịnh hành vào đời Tây Chu.Thời này thịnh hành đồ đồng, nên có rất nhiều bài văn được đúc hoặc khắc trên các đồ đồng. Vì thể loại văn tự này được tìm thấy dưới dạng đúc hoặc khắc trên đồ kim khí nên mới có tên gọi Chữ Kim Văn.
Chữ Triện (Triện Thư) là thể chữ lưu hành thời Tây Chu (khoảng thế kỉ XI đến năm 771 trc.CN) và phát triển ở nước Tần trong thời kì Chiến quốc. Triện thư chia làm hai loại: đại triện và tiểu triện. Đại triện là thể chữ phát triển từ Kim văn, lưu hành vào thời Tây Chu và có nhiều dị thể ở các nước khác nhau.
Đến khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất sáu nước và đề ra chính sách thống nhất văn tự tạo ra Tiểu Triện hay Tần Triển. Đây có thể coi là kiểu chữ thống nhất đầu tiên của Trung Quốc. Tiểu triện được sử dụng từ khi nhà Tần thành lập đến khoảng thời Tây Hán, sau đó bi thay thế bởi Lệ thư với lối viết đơn giản hơn.
Lệ thư là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển chữ Hán. Nó đánh dấu việc chữ Hán hoàn toàn trở thành văn tự thực sự với sự ước lệ cao trong hình chữ. Chữ Lệ về cơ bản đã gần giống với chữ Khải ngày nay, tuy nhiên hình chữ hơi bẹt. Loại chữ này có thể chia làm 2 loại: Tần Lệ và Hán Lệ. Tần Lệ còn mang nhiều đặc điểm của chữ Triện. còn Hán Lệ đã hoàn toàn thoát khỏi triện thư.
Về thời gian ra đời của thể loại chữ này thì theo kết quả khảo cổ gần đây, các nhà khảo cổ tìm được những thẻ tre chép chữ Lệ ở nước Tần thời Chiến quốc. Vì vậy, giới sử học nhận định rằng, khi Tần Thủy Hoàng tiến hành thống nhất văn tự, người ta đã sử dụng song song chữ Lệ và Tiểu triện.
Khải Thư ra đời vào khoảng đời Hán, hoàn thiện vào đời Ngụy Tấn, phát triển rực rỡ vào đời Đường. Khải Thư thời kì đầu còn có chút xu hướng của chữ Lệ, nhưng cũng rất ít. Khải Thư được xem là bước phát triển hoàn thiện nhất của chữ Hán và lưu truyền đến ngày nay.
Chữ Khải kết cấu chặt chẽ, nét bút chỉnh tề, lại đơn giản dễ viết, vô cùng quy phạm. Phần lớn chữ in trong sách văn bản ngày nay đều thuộc về chữ Khải.
Còn về nguồn gốc ra đời theo sự tích truyền thuyết thì trong đó có truyền thuyết nổi bật nhất là Thương Hiệt Tạo Chữ. Mọi người cùng tìm hiểu nguồn gốc chữ Hán Tiếng Trung theo góc độ này nhé.
Hiện tại, ngôn ngữ của Trung Quốc có nhiều tên gọi khác nhau, nếu để ý các bạn sẽ thấy miền Bắc nước ta hay các trường Đại học có khoa Tiếng Trung Quốc thì thường gọi là tiếng Trung, Khoa Trung hay Trung Văn, còn ở miền Nam chúng ta hay gọi là tiếng Hoa, một số còn gọi là Hoa Văn, Hoa Ngữ (như SHZ gọi là Hoa Văn SHZ),…Vậy làm sao để phân biệt?
+ Trung Văn, tức Ngôn Ngữ Trung Quốc, được dùng khi phân biệt với Anh Văn, Pháp Văn
+ Hán Ngữ, là chỉ ngôn ngữ được dân tộc Hán (chiếm phần lớn dân số Trung Quốc) sử dụng; được dùng khi phân biệt với ngôn ngữ mà các dân tộc thiểu số của Trung Quốc sử dụng, như Tạng Ngữ (dân tộc Tạng), Mông Ngữ (dân tộc Mông Cổ ), ......
+ Hoa Văn, thường chỉ ngôn ngữ mà các Hoa Kiều (người Trung Quốc định cư ở nước ngoài) sử dụng, dùng khi phân biệt với tiếng Malay của dân tộc Malay, tiếng Indo của dân tộc Indonesia.
+ Tiếng Trung, được dùng rộng rãi trong tên gọi tiếng Trung Quốc ngày nay.
Hy vọng các kiến thức ngày hôm nay có thể tạo thêm hứng thú giúp bạn học tập tốt Tiếng Trung.
thường được gọi chung không phân biệt bằng cùng một tên gọi. Về văn ngôn, xin xem bài
Chữ Hán, còn gọi là Hán tự, Hán văn[cần dẫn nguồn], chữ nho, là loại văn tự ngữ tố - âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Ngôn ngữ đầu tiên được viết bằng chữ Hán là tiếng Hán thượng cổ, một ngôn ngữ cổ đã tuyệt diệt. Tiếng Hán thượng cổ viết bằng chữ Hán thường không được ghi lại ở hình thức đầy đủ của nó như khi nói mà ở dạng giản lược về ngữ pháp và từ vựng. Sự giản lược này dần dần sẽ sản sinh ra văn ngôn, một dạng ngôn ngữ viết truyền thống của tiếng Hán. Theo thời gian, đã có thêm nhiều ngôn ngữ được viết bằng chữ Hán, bao gồm hầu hết các ngôn ngữ là con cháu của tiếng Hán thượng cổ như tiếng Hán trung cổ, Hán ngữ tiêu chuẩn, tiếng Quảng Đông, tiếng Mân Nam, vân vân, và nhiều ngôn ngữ khác ở Đông Á như tiếng Việt, tiếng Nhật, tiếng Triều Tiên, tiếng Tày, vân vân.
Tại Trung Quốc thời cổ đại, ở trong tiếng Hán không có tên gọi nào chỉ riêng chữ Hán được đông đảo người nói tiếng Hán biết đến. Người nói tiếng Hán thường chỉ dùng những từ ngữ có nghĩa là chữ, chữ viết để chỉ chữ Hán.[1]
Trong các thư tịch tiếng Hán được viết trước thời nhà Tần còn lưu truyền được đến ngày nay có các từ sau để chỉ văn tự:[2]
Từ 名 “danh” có nghĩa gốc là tên, tên gọi. Tên gọi của sự vật đều là từ ngữ. Từ nghĩa gốc chỉ tên gọi, từ danh 名 “danh” có thêm nghĩa chuyển chỉ từ. Người xưa không phân biệt từ với chữ, họ đánh đồng ký hiệu họ dùng để ghi lại từ ngữ với từ ngữ nên họ đã lấy tên gọi của từ ra dùng để chỉ chữ.[3] William H. Baxter và Laurent Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 名 là /*C.meŋ/.[4]
Từ 書 “thư” có nghĩa gốc là viết. Chữ là thứ người ta viết ra khi viết, người xưa đã dùng từ 書 “thư” làm tên gọi của chữ.[5] Baxter và Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 書 là /*s-ta/.[6]
Từ 文 “văn” có nghĩa gốc là hoa văn. Trong chữ Hán có nhiều chữ được tạo ra bằng cách vẽ mô phỏng hình dạng của sự vật mà từ được ghi bằng chữ Hán đó biểu thị. Thí dụ: hình dạng cổ xưa nhất của chữ Hán 月 “nguyệt” (được dùng để ghi từ tiếng Hán có nghĩa là mặt trăng) là hình mặt trăng. Hoa văn thường cũng là hình mô phỏng hình dạng của sự vật, người xưa hình dung những chữ Hán có hình dạng là hình vẽ mô phỏng lại hình dạng của sự vật cũng giống như là hoa văn nên họ đã gọi chữ là 文 “văn”.[7][8] Baxter và Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 文 là /*mə[n]/.[9]
Từ 字 “tự” bắt đầu được dùng để chỉ văn tự từ thời Chiến quốc.[10] Nghĩa gốc của từ 字 “tự” là sinh, đẻ. Có nhiều chữ Hán được tạo ra bằng cách đem ghép các chữ Hán đã có sẵn lại với nhau, tạo thành chữ mới. Thí dụ: chữ 字 “tự” được tạo ra bằng cách đem ghép chữ 宀 “miên” với chữ 子 “tử”. Người xưa hình dung việc đem ghép chữ này với chữ nọ tạo thành chữ khác giống như là nam nữ giao hợp với nhau, sinh ra con cái, nên họ đã gọi chữ là 字 “tự”.[8] Baxter và Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 字 là /*mə-dzə(ʔ)-s/.[11] Từ chữ trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Hán thượng cổ 字.[12]
Sang đến thời nhà Tần, tiếng Hán có thêm một từ khác để chỉ chữ viết là từ 文字 “văn tự”. Từ này được tạo ra bằng cách ghép hai từ đã có từ trước đó là 文 “văn” và 字 “tự” lại với nhau.[13]
Từ thời nhà Tần cho đến trước thời cận đại, trong tiếng Hán, văn tự thường được gọi là 字 “tự” hoặc 文 “văn” hoặc 文字 “văn tự”.[1]
Tên gọi thông dụng hiện nay - “Hán tự” (漢字), ra đời từ nhu cầu của tăng lữ Phật giáo cần có tên gọi chỉ riêng chữ Hán để phân biệt chữ Hán với chữ Phạm nảy sinh khi dịch tiếng Phạm sang tiếng Hán. Thư tịch cổ nhất đã biết trong đó có gọi chữ Hán là Hán tự 漢字 “Hán tự” là sách 梵語千字文 “Phạm ngữ thiên tự văn” do tỷ khâu đời Đường Nghĩa Tịnh viết năm Hàm Hanh (咸亨) thứ hai (Tây lịch năm 671). Sách 梵語千字文 “Phạm ngữ thiên tự văn” còn có tên gọi khác là 唐字千鬘聖語 “Đường tự thiên man thánh ngữ”, 梵唐千字文 “Phạm Đường thiên tự văn”.[14]
Theo truyền thuyết thì Hoàng Đế là người sáng tạo ra văn tự Trung Hoa từ 4-5 ngàn năm trước nhưng ngày nay không còn ai tin rằng Hoàng Đế là nhân vật có thật nữa. Cả thuyết Thương Hiệt cho chữ mà các học giả thời Chiến Quốc đưa ra cũng không thuyết phục vì không ai biết Thương Hiệt ở đời nào. Gần đây người ta đào được ở An Dương (Hà Nam) nhiều mu rùa, xương loài vật, và đồ đồng trên đó có khắc chữ, và các nhà khảo cổ phỏng đoán rằng chữ viết ở Trung Hoa ra đời muộn nhất là vào thời kỳ nhà Thương, khoảng 1800 năm trước Công nguyên.[cần dẫn nguồn]
Chữ Hán được hình thành theo các cách chính:
Bốn cách tạo chữ (Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh) và hai cách sử dụng chữ (Chuyển chú, Giả tá) được gọi chung là Lục Thư (六書).
Chữ Hán có đến hàng ngàn chữ nhưng được phân loại thành 214 bộ chữ, mỗi bộ chữ được đại diện bằng một thành phần cấu tạo chung gọi là bộ thủ, dựa theo số nét.
Tuy nhiên số bộ thủ không phải bất biến mà có sự thay đổi theo thời gian. Số bộ thủ nói trên là dạng chữ phồn thể, dựa theo Khang Hi tự điển (1716) và các từ điển thông dụng sau này như Trung Hoa đại tự điển (1915), Từ hải (1936).[15]
Trước đó, trong Thuyết văn giải tự của Hứa Thận (thời Đông Hán) có 9350 chữ phân làm 540 bộ thủ. Tự lâm của Lã Thầm (đời Tấn) và Loại biên của Vương Chu và Tư Mã Quang (đời Tống) cũng có 540 bộ thủ. Ngọc thiên của Cố Dã Vương đời Lương có 542 bộ thủ. Với việc giản thể hóa chữ Hán, vì phải thêm các bộ thủ giản thể nên số bộ thủ tăng lên thành 227 bộ. Tuy nhiên, một số cách ghép bộ thủ đã làm giảm số bộ thủ, chẳng hạn Tân Hoa tự điển có 189 bộ thủ, Hiện đại Hán ngữ từ điển có 188 bộ thủ, Hán ngữ đại từ điển có 200 bộ thủ. Riêng cuốn Từ nguyên xuất bản năm 1979 có tới 243 bộ thủ.
Chữ Hán khắc phục sự hiểu sai nghĩa do đồng âm khác nghĩa: ví dụ như từ Hán-Việt "vũ" có các chữ Hán là 宇(trong "vũ trụ"), 羽(trong "lông vũ"), 雨(trong "vũ kế" - nghĩa là "mưa"), 武 (trong "vũ khí"), 舞(trong "vũ công" - nghĩa là "múa"). Nếu chỉ viết "vũ" theo chữ Quốc ngữ thì người đọc phải tự tìm hiểu nghĩa, còn nếu viết bằng chữ Hán thì nghĩa của "vũ" sẽ được thể hiện rõ ràng. Ứng dụng này được sử dụng nhiều nhất ở Hàn Quốc, khi bố mẹ đi khai sinh cho con ngoài việc viết tên con bằng hangul để biểu thị cách đọc thì họ cũng phải viết cả hanja để biểu thị ý nghĩa cho tên của con mình. Ví dụ: Kim Ki Bum (cựu thành viên Super Junior) và Key (thành viên SHINee) đều có tên thật là "Gim Gi-beom", viết bằng hangul là 김기범, nhưng tên chữ Hán thì khác nhau. Kim Ki Bum có tên chữ Hán là 金起範 (Kim Khởi Phạm), còn Key có tên chữ Hán là 金基范 (Kim Cơ Phạm). Trong tiếng Việt, việc chỉ sử dụng chữ Quốc ngữ (chữ Latinh) chỉ có thể biểu âm mà không dùng kèm chữ Hán và chữ Nôm có tính biểu nghĩa tốt, đang khiến tình trạng đồng âm khác nghĩa trong tiếng Việt trở nên nghiêm trọng hơn. Tiêu biểu như ngay chính người Việt không hiểu đúng chữ "Thị" thường có trong tên phụ nữ Việt Nam mang nghĩa là gì,[16] nhầm họ (họ Tôn và họ Tôn Thất, họ Âu và họ Âu Dương),[17] dịch "Vĩnh Long" thành "Vĩnh Dragon"[18][19],... đã gián tiếp chứng minh rằng việc chỉ sử dụng chữ Quốc ngữ thì không đủ khả năng để biểu nghĩa đầy đủ cho tiếng Việt như chữ Hán và chữ Nôm.[20]
"...Nhược điểm của chữ Quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có tính chất thuần tuý ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt...Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai hoạ không còn hoán cải được nữa, nhưng ta có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn học bắt buộc ở trường phổ thông..."
Chữ Hán bắt nguồn từ Trung Quốc từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát đồ vật xung quanh và vẽ thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa. Chữ Hán đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Cho tới hiện nay, chữ Hán cổ nhất được cho là loại chữ Giáp Cốt (Giáp cốt văn 甲骨文), chữ viết xuất hiện vào đời nhà Ân (殷) vào khoảng 1600-1020 trước Công Nguyên. Chữ Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên các mảnh xương thú vật và có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được.
Chữ Giáp Cốt tiếp tục được phát triển qua các thời:
Ngoài ra còn có chữ Hành thư (行書) và chữ Thảo thư (草書). Chữ Khải thư là loại chữ được dùng bút lông chấm mực tàu viết trên giấy và rất gần với hình dáng chữ Hán ngày nay vẫn còn được dùng ở Nhật, Đài Loan hay Hương Cảng. Chữ Thảo thư là loại chữ được viết bằng bút lông có lược bớt hoặc ghép một số nét lại. Sự phát triển chữ Hán trải qua các thời kỳ có thể được minh họa bằng một số chữ sau:
Giáp cốt văn → Kim văn → Triện thư → Lệ thư → Thảo thư → Khải thư → Hành thư
Ngày nay tại Trung Quốc đại lục, bộ chữ giản thể (简体字) đã thay thế cho bộ chữ phồn thể (繁體字). Công cuộc cải cách chữ[21] viết được thực hiện sau khi đảng Cộng sản đánh bại phe quốc dân đảng ra khỏi đại lục (1949).Tháng 10 năm 1954 tại đại lục thành lập ủy ban cải cách chữ viết (中国文字改革委员会), cuộc cải cách nhằm đơn giản hóa chữ Hán để quần chúng nhân dân dễ dàng học biết chữ, xóa mù chữ, thống nhất nhân tự trên các khu vực vốn dĩ có nhiều khác biệt do điều kiện địa lí và lịch sử, đồng thời thúc đẩy việc dạy và học tiếng Hán đối với người nước ngoài. Các khu vực ngoài đại lục, đảng Cộng sản không kiểm soát như Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao, và cộng đồng người Hoa ở hải ngoại hay các khu vực có sử dụng tiếng Hán như Singapore tiếp tục sử dụng chữ phồn thể, tuy nhiên cũng có những cải biến nhất định.
Có ý kiến cho rằng chữ Hán đã hiện diện ở Việt Nam từ trước Công nguyên, dựa trên suy diễn về dấu khắc được coi là chữ trên một con dao găm [22]. Tuy nhiên đó là lúc chữ Hán chưa hình thành và chưa có tư liệu xác định vào thời kỳ trước Công nguyên cư dân Việt cổ đã sử dụng chữ.
Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X, Việt Nam chịu sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, chữ Hán và tiếng Hán được giới quan lại cai trị áp đặt sử dụng. Theo Đào Duy Anh thì nước Việt bắt đầu có Hán học khi viên Thái thú Sĩ Nhiếp (137 - 226) đã dạy dân Việt thi thư. Trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán.
Nước Nam Việt được Triệu Đà thành lập vào thế kỷ thứ III TCN, khi nhà Tần đang thống nhất chữ viết (vào thời chiến quốc, mỗi nước phát triển chữ viết khác nhau). Hơn một thế kỷ sau, khi Lưu Bang lật đổ nhà Tần lập nhà Hán, nhà Hán mới thôn tính được Nam Việt (khoảng năm 111 TCN). Cổ vật trong lăng mộ của Hán Văn Đế cho thấy chữ viết của Nam Việt khá hoàn chỉnh [cần dẫn nguồn]. Sau này, nhà sử học Lê Mạnh Thát phát hiện rằng ngay cả Hán thư cũng dùng phương ngôn của người Việt.
Trong suốt thời gian Bắc thuộc đó, với chính sách Hán hóa của nhà Hán, tiếng Hán đã được giảng dạy ở Việt Nam và người Việt đã chấp nhận ngôn ngữ mới đó song song với tiếng Việt, tiếng nói truyền miệng. Tuy người Việt Nam tiếp thu tiếng Hán và chữ Hán nhưng cũng đã Việt hóa nhiều từ của tiếng Hán thành từ Hán-Việt. Từ đó đã có rất nhiều từ Hán-Việt đi vào trong từ vựng của tiếng Việt. Sự phát triển của tiếng Hán ở Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc song song với sự phát triển của tiếng Hán ở chính Trung Quốc thời đó. Tuy nhiên, năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, người Việt đã độc lập và không còn lệ thuộc vào phương Bắc nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn còn đậm ảnh hưởng của tiếng Hán. Sang thời kỳ tự chủ chữ Hán giữ địa vị là văn tự chính thức nhưng cách đọc đã phát triển theo hướng riêng, khác với sự phát triển tiếng Hán ở Trung Quốc.
Trong quá trình đó chữ Hán vẫn được người Việt dùng và phát triển thêm nhưng cách phát âm chữ Hán lại bị chi phối bởi cách phát âm của người Việt, tạo ra và củng cố dần âm Hán-Việt. Do nhu cầu phát triển, người Việt đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết riêng, tức chữ Nôm. Trong khi đó cổ văn Hán vẫn được coi là mẫu mực để noi theo.[23]
Mặc dù hiện nay rất ít được sử dụng ở Việt Nam, nhưng chữ Hán cùng với chữ Nôm vẫn là dạng kí tự quan trọng với tiếng Việt bởi tác dụng biểu thị nghĩa cho từ ngữ (khi mà chữ Quốc Ngữ chỉ có tác dụng biểu thị âm) do vấn đề đồng âm khác nghĩa, nghĩa của từ bị sai lệch (đặc biệt là hiểu nhầm ý nghĩa của tên người hoặc tên địa danh).[20] Các di chỉ lịch sử thời xưa bằng chữ Hán và chữ Nôm vẫn được bảo tồn. Người Việt đôi khi dùng chữ Hán-Nôm trong một số dịp như viết thư pháp, xin chữ ngày tết hay dán chữ 囍 - "song hỉ" ở nhà và tiệc khi có lễ cưới và vẫn thường xuyên được dùng trong các nghi lễ tôn giáo.
Hiến pháp 2013 tại Chương I Điều 5 Mục 3 quy định: "Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình", do vậy không có luật lệ hay quyền hành nào cấm người Việt hiện nay viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm như người Việt xưa.
Hán ngữ được du nhập vào bán đảo Triều Tiên khá lâu, khoảng thời kỳ đồ sắt. Đến thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên, xuất hiện các văn bản viết tay của người Triều Tiên. Các bản viết tay này được sử dụng chữ Hán. Tiếng Hán là thứ ngôn ngữ khó, dùng chữ Hán để viết tiếng Triều Tiên trở nên phức tạp, cho nên các học giả người Triều Tiên đã tìm cách cải biến chữ Hán để phù hợp với âm đọc của tiếng Triều Tiên. Vào khoảng thế kỷ thứ XV, ở Triều Tiên xuất hiện chữ ký âm, được gọi là Hangul (한글) hay Chosŏn'gŭl (조선글), chữ này trải qua nhiều thế kỷ phát triển thăng trầm, cuối cùng chính thức được dùng thay thế cho chữ Hán cho tới ngày nay. Chosŏn'gŭl lúc ban đầu gồm 28 ký tự, sau đó còn 24 ký tự giống như bảng chữ cái La Tinh, và được dùng để ký âm tiếng Triều Tiên. Tuy Hangul đã xuất hiện nhưng chữ Hán (Hanja) vẫn còn được giảng dạy trong trường học. Năm 1972, Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã quy định, phải dạy 1800 chữ Hán cơ bản cho học sinh. Còn ở Triều Tiên, người ta đã bỏ hẳn chữ Hán.[cần dẫn nguồn]
Chữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường Triều Tiên. Chữ Hán ở Nhật được gọi là Kanji (漢字 Hán tự) và được du nhập vào Nhật theo con đường giao lưu buôn bán giữa Nhật và Triều Tiên vào khoảng thế kỷ thứ IV, V. Tiếng Nhật cổ đại vốn không có chữ viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật, người Nhật dùng chữ Hán để viết tiếng nói của họ. Dạng chữ đầu tiên người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viết tiếng Nhật là chữ Man-yogana (萬葉假名 Vạn Diệp Giả Danh). Hệ thống chữ viết này dựa trên chữ Hán và khá phức tạp. Man-yogana được đơn giản hóa thành Hiragana ひらがな (平假名 Bình Giả Danh) và Katakana カタカナ (片假名 Phiến Giả Danh). Cả hai loại chữ này trải qua nhiều lần chỉnh lý và hoàn thiện mới trở thành chữ viết ngày nay ở Nhật. Tiếng Nhật hiện đại được viết bằng ba loại ký tự:
Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âm Hán cổ, được gọi là On-yomi (音読 (音讀) (Âm Độc), ?) và cách đọc theo âm tiếng Nhật được gọi là Kun-yomi (訓読 (訓讀) (Huấn Độc), ?). Trong quá trình phát triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn mượn chữ Hán để sáng tạo ra một số chữ (khoảng vài trăm chữ) và mỗi chữ này chỉ có cách đọc theo âm tiếng Nhật; các chữ này được gọi là Kokuji (国字 (國字) (Quốc Tự), ?), tiếng Nhật gọi là Quốc Tự Quốc Huấn (國字國訓), nghĩa là "chữ quốc ngữ âm quốc ngữ". Những chữ quốc ngữ này của người Nhật có cách hình thành khá giống chữ Nôm của Việt Nam (xin xem phần sau về chữ Nôm). Tháng 11 năm 1946, Bộ Giáo dục Nhật đề nghị đưa vào giảng dạy 1850 chữ Hán cơ bản trong trường học, và được Quốc hội Nhật thông qua năm 1947.
Đến năm 1981 thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm khoảng 1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác dùng để viết tên người. Đến năm 2000, các chữ Hán dùng để viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tăng lên trên 400 chữ. Các chữ Hán này được lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng (Jyoyo Kanji Hyo, 常用漢字表 Thường Dụng Hán Tự Biểu) và Bảng chữ Hán dùng viết tên người (Jinmeiyo Kanji Hyo, 人名用漢字表 Nhân Danh Dụng Hán Tự Biểu).
Thư pháp là nghệ thuật viết chữ. Nghệ thuật Thư pháp Á Đông là nghệ thuật viết chữ Hán. Chữ Hán là loại chữ tượng hình và viết chữ Hán phải dùng bút lông để làm tăng thêm sức thể hiện của nhà thư pháp. Chữ Hán trong lịch sử đã một mặt làm nhiệm vụ là phương tiện để ghi chép, trao đổi tưởng truyền đạt văn hóa... của thế hệ này đến thế hệ khác, mặt khác nó còn tự tạo cho mình một môn nghệ thuật tạo hình độc đáo, sáng tạo.[24]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về
1. Một cách đơn giản, mọi người cần hiểu, ngôn ngữ nào cũng có lịch sử phát triển, và tiếng Trung Quốc cũng thế. Người Trung Quốc nhiều đời trước thống nhất dùng văn tự chữ Hán (phồn thể) để viết và dùng ngữ pháp chữ Hán để hiểu. Lối hành văn ấy thường gọi là văn chương bát cổ, sử dụng ở các triều đại phong kiến. Đến nay, Chính phủ Trung Quốc thống nhất dùng chữ viết tiết giản các nét (giản thể) và ngữ pháp vùng Bắc Kinh cho đất nước này, từ đó trở thành tiếng phổ thông Trung Hoa (Trung văn) hay còn gọi là tiếng Quan thoại, tiếng Bắc Kinh.
Với người Việt Nam, chữ Hán được du nhập cùng bước chân xâm lược và chế độ đô hộ của Trung Quốc trước đây. Giới nghiên cứu cho rằng chữ Hán được vận dụng chính từ thời Hán, với âm đọc của thời đó, lưu giữ cho đến nay. Chữ Hán, được người Việt dùng, nhưng với âm đọc Hán - Việt, tức là phát âm theo tiếng của người Việt Nam.
Trải qua nhiều triều đại, cùng với lối văn chương bát cổ được sử dụng, từ vựng chữ Hán đã dần trở thành “vốn từ” đa số trong ngôn ngữ Việt Nam. Những chữ Hán này, tức các từ Hán - Việt, đọc lên hoàn toàn bằng âm Việt, người Trung Quốc nghe không hiểu. Nghĩa dùng, ngữ pháp chữ Hán - Việt cũng tuân thủ theo văn chương cũ ở các triều đại phong kiến, nên người Trung Quốc hiện đại cũng không thể hiểu được.
Thậm chí qua thời gian, chữ Hán còn được người Việt biến cải, sử dụng với nhiều nghĩa khác, từ đó tạo ra nhiều chữ Hán “thuần Việt”, không còn chữ Hán nguyên thủy. Sự khác biệt này, nếu so sánh với tiếng phổ thông Trung Quốc hiện nay, sẽ rất rõ nét.
Ví dụ, người Trung Quốc dùng chữ “chúng cư” (眾 居) theo nghĩa nơi ở tập trung nhiều người, nhưng người Việt đổi âm là “chung cư”. Người Trung Quốc dùng chữ “khốn nạn” (困 難) để chỉ sự khó khăn, còn người Việt lại trỏ vào một đặc tính hành xử của con người. Người Trung Quốc dùng chữ sinh sản (生 產) với nghĩa “sản xuất”, còn người Việt lại dùng chữ sinh sản để chỉ vào việc sinh nở của phụ nữ. Đại gia (大 家), với tiếng Trung Quốc hiện đại, nghĩa là mọi người, nhưng người Việt lại dùng nghĩa “người giàu có tiền bạc”.
Hơn nữa, trong lịch sử ngôn ngữ, người Việt còn sử dụng chữ Hán để ký âm đọc tiếng Việt, từ đó tạo nên những từ tiếng Việt thuần túy nhưng viết bằng chữ Hán, gọi là chữ Nôm. Lối chữ này, hoàn toàn không phải là chữ Hán của người Trung Quốc nữa, và đã từng được người Việt sử dụng như là một thứ chữ viết riêng cho tiếng Việt.
Do đó, chữ Hán - Việt chính là nền tảng quan trọng để ký âm chữ Nôm cho người Việt, và trong lịch sử phát triển của ngôn ngữ Việt Nam, chữ Hán là thành phần không thể thiếu được khi người Việt muốn nắm rõ, giảng nghĩa các từ dùng của mình. Nền văn hóa, văn học Việt Nam, ngôn ngữ cha ông chúng ta vì thế không tách rời với chữ Hán và chữ Nôm, cần phải được bảo tồn, nắm bắt đúng nguyên nghĩa giá trị và tinh thần trong đó.
2. Học chữ Hán, với người Việt hiện nay, chính là một thách thức không đơn giản, khi cả dân tộc đã hơn 100 năm chuyển đổi qua hệ ký âm Latinh tiếng Việt, sử dụng chữ Quốc ngữ trong mọi hoạt động văn hóa và giao tiếp. Chữ viết hiện nay của người Việt hoàn toàn không còn dấu vết gì của chữ Hán, chữ Nôm.
Có điều, thực chất nghĩa ẩn chứa bên trong từ tiếng Việt, lại là nghĩa của từ Hán - Việt. Do đó, để hiểu đúng hiểu đủ bản sắc phong phú, độc đáo của ngôn ngữ tiếng Việt, chúng ta không thể bỏ qua “kênh dịch nghĩa” là từ Hán - Việt. Thậm chí, khi bỏ nghĩa Hán - Việt, nhiều từ tiếng Việt sẽ bị đứt gãy nghĩa, trở nên tối nghĩa và sai lệch. Khối lượng từ tiếng Việt của chúng ta sẽ giảm đi rất nhiều và méo mó một cách thảm hại.
Ví dụ, với câu nói “đêm qua, đại ca Hùng đã dùng ca sắt đánh vào đầu ca sĩ Hồng”, rất nhiều người hiện nay không thể phân biệt đúng và đầy đủ nghĩa của 3 từ “ca” được sử dụng. Nếu không nắm vững được các từ Hán - Việt với nghĩa dùng ở đây, cùng các từ tiếng Việt, chữ Nôm tương ứng, chắc chắn người Việt Nam không thể giảng rõ được từ dùng của mình.
Đây là lý do để gần đây, một trào lưu “học chữ Hán” khá sôi nổi đa dạng được khuấy động ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, được nhiều bạn trẻ quan tâm theo học. Tuy nhiên, do không hiểu được bản chất sự việc, nhiều bạn trẻ đang cổ súy bài xích hoạt động đó, cho rằng các bạn học chữ Hán là học tiếng Trung Quốc, dẫn đến những ngộ nhận sai lầm khi ứng xử.
Thậm chí ngay ở một số nhà sách, nhà xuất bản, một số từ điển, tự điển chữ Hán cũng bị hiểu nhầm là từ điển, tự điển tiếng Trung, và ngược lại. Có rất nhiều từ điển tiếng Trung Quốc hiện đại, khi được dịch qua tiếng Việt, đã ghi thành từ điển Hán - Việt, rất là sai lệch.
Học và hiểu ngôn ngữ là cả một vấn đề lớn, không đơn giản, nhất là khi các ngôn ngữ ấy đã có một lịch sử giao thoa cả ngàn năm. Cho nên, nhận chân vấn đề, hiểu đúng bản thể sự việc là rất quan trọng. Học chữ Hán, vì thế rất mong các bạn trẻ và cộng đồng đừng nhầm lẫn cho là học tiếng phổ thông Trung Quốc.
Tiếng Nhật có 3 loại chữ là: Hiragana, Katakana và Kanji tức chữ Hán. Hiragana và Katakana là chữ biểu âm, mỗi chữ thể hiện 1 âm, còn chữ Hán là chữ biểu ý, mỗi chữ có ý nghĩa nhất định.